Cần Thơ nổi tiếng với vẻ đẹp sông nước hữu tình, miệt vườn trĩu quả. Nơi đây thu hút du khách bởi biểu tượng thành phố, nơi ngắm nhìn dòng sông Hậu hiền hòa; Chợ Nổi Cái Răng độc đáo cùng trải nghiệm mua sắm trên sông nước, thưởng thức trái cây tươi ngon; vui chơi giải trí, tham quan miệt vườn, thưởng thức đặc sản địa phương; kiến trúc Pháp độc đáo, lưu giữ dấu ấn lịch sử, ẩm thực phong phú như lẩu mắm, bánh xèo, cá lóc nướng trui, bánh canh Bến Ninh Kiều… và cuối cùng là con người ở đây hiếu khách mang đến cho du khách cảm giác ấm áp, thân thiện.
Cần Thơ nổi tiếng với vẻ đẹp sông nước hữu tình, miệt vườn trĩu quả. Nơi đây thu hút du khách bởi biểu tượng thành phố, nơi ngắm nhìn dòng sông Hậu hiền hòa; Chợ Nổi Cái Răng độc đáo cùng trải nghiệm mua sắm trên sông nước, thưởng thức trái cây tươi ngon; vui chơi giải trí, tham quan miệt vườn, thưởng thức đặc sản địa phương; kiến trúc Pháp độc đáo, lưu giữ dấu ấn lịch sử, ẩm thực phong phú như lẩu mắm, bánh xèo, cá lóc nướng trui, bánh canh Bến Ninh Kiều… và cuối cùng là con người ở đây hiếu khách mang đến cho du khách cảm giác ấm áp, thân thiện.
Qua 20 năm xây dựng và phát triển, với nhiều thành tựu đạt được về kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, thành phố từng bước vươn lên trở thành trung tâm, động lực phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố luôn đạt mức khá cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công nghiệp là chủ đạo, chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh từng bước được cải thiện. Hằng năm, thành phố Cần Thơ đóng góp khoảng 1,2% GDP cả nước và khoảng 9,5% GRDP của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tổng sản phẩm bình quân đầu người (GRDP/người) ngày càng tăng; việc huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội tăng đáng kể.
Thành phố Cần Thơ là một trong các đô thị trọng điểm thực hiện “Đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu”; thành phố đã nhận “Chứng chỉ ASEAN thành phố tiềm năng để trở thành thành phố bền vững về môi trường lần thứ 3 về không khí sạch”. Thành phố tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, bao gồm hạ tầng thương mại – dịch vụ, du lịch, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa – thể thao, năng lượng và các khu – cụm công nghiệp, đặc biệt là hạ tầng giao thông. Điều này nhằm khẳng định vai trò là đầu mối giao thông vận tải vùng và quốc tế, từng bước khẳng định vị trí trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Cần Thơ đã và đang phát triển mạnh mẽ, trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa và giáo dục của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hiểu rõ về địa vị hành chính của Cần Thơ giúp chúng ta nhận thấy sự phát triển vượt bậc của thành phố này trong việc thúc đẩy sự phát triển toàn diện của khu vực. Hy vọng bài viết do ACC Cần Thơ chia sẻ đã giải đáp thắc mắc của bạn về câu hỏi “Thành phố Cần Thơ thuộc tỉnh nào?” và cung cấp thêm những thông tin hữu ích về thành phố xinh đẹp này.
Bài này viết về thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng trước đây. Đối với thành phố trực thuộc trung ương hiện tại, xem
Đà Nẵng là một thành phố thuộc tỉnh và là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ trước khi thành lập thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương hiện nay. Thành phố Đà Nẵng lúc bấy giờ có địa giới hành chính tương ứng với các quận Hải Châu, Sơn Trà, Thanh Khê, phường Khuê Trung thuộc quận Cẩm Lệ và phường Khuê Mỹ, Mỹ An thuộc quận Ngũ Hành Sơn
Thành phố Đà Nẵng nằm trải dài hai bên bờ sông Hàn, từ ngã ba sông ra đến cửa biển Đà Nẵng. Bán đảo Sơn Trà nằm về phía đông bắc thành phố.
Trước khi giải thể vào năm 1997, thành phố có vị trí địa lý:
Ngày 17 tháng 8 năm 1888, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập ba thành phố ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.[1] Ngày 3 tháng 10 năm 1888, Vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ "...Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó". Theo phụ đính của đạo dụ này, năm xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập "nhượng địa" Tourane với diện tích 10.000 ha.[2] Ngày 24 tháng 5 năm 1889, Toàn quyền Đông Dương Étienne Richaud ra nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam.[3] Đà Nẵng là thành phố loại 2, tương tự như thành phố Chợ Lớn thành lập trước đó.[4] Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương thay vì triều đình Huế.[5] Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm.[4] Ngày 15 tháng 1 năm 1901, dưới sức ép của Pháp, Vua Thành Thái buộc phải ký một đạo dụ nới rộng nhượng địa Đà Nẵng thêm 14 xã, cụ thể là thêm 8 xã thuộc huyện Hòa Vang bên tả ngạn sông Hàn và 6 xã thuộc huyện Diên Phước bên hữu ngạn sông Hàn.[6] Ngày 19 tháng 9 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập gồm 19 xã.[7] Như vậy vào đầu thế kỷ XX, thành phố Tourane/Đà Nẵng đã vươn về phía tây và tây bắc, còn phía đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà.[8][6][9]
Đầu thế kỷ XX, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu, sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ được hình thành và phát triển; cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng.[5] Cảng Đà Nẵng đã tương đối hoàn chỉnh và đi vào hoạt động từ giai đoạn 1933-1935. Sân bay dân dụng cũng được nhà cầm quyền sớm xây dựng vào năm 1926.[10] Hầu hết các công ty lớn nhất hoạt động ở Đông Dương đều hiện diện ở Đà Nẵng.[11] Dân số thành phố tăng lên nhanh chóng; năm 1936, Đà Nẵng có 25.000 người; năm 1945 có khoảng 30.000 người.[12]
Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Từ tháng 10 năm 1955 thời Việt Nam Cộng hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành phân chia lại địa giới hành chính. Lúc này, Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Đến ngày 31 tháng 7 năm 1962, tỉnh Quảng Nam được tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, Đà Nẵng trực thuộc trung ương.[15]
Thị xã Đà Nẵng được chia thành 3 quận:
Vào những năm 1954-1955, dân số Đà Nẵng có khoảng hơn 50.000 người.[15]
Trong khi đó cuộc Chiến tranh Việt Nam ngày càng gia tăng. Tháng 3 năm 1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Sân bay Đà Nẵng được coi là một trong những sân bay "tấp nập" nhất trong chiến tranh.[16] Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng phục vụ cho mục đích quân sự như sân bay, cảng, kho bãi, cơ sở thông tin liên lạc...[17]
Năm 1973, khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho phân chia lại địa giới hành chính Đà Nẵng, giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường.
Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã gồm 12 ủy viên và do một Thị trưởng đứng đầu.[18] Do chính sách đô thị hoá, dân số Đà Nẵng ngày càng tăng nhanh. Dân số thành phố từ mức 148.599 người vào năm 1964 tăng lên tới gần 500.000 người vào năm 1975.
Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Đà Nẵng là đô thị lớn thứ hai miền Nam.[19] Tính đến trước sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cảng Đà Nẵng là nơi cung cấp hàng hóa cho cả vùng I chiến thuật, đồng thời là trung tâm tiếp tế cho gần 3 triệu dân miền Nam.[20] Toàn thị xã khi đó có hàng chục công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Người dân Đà Nẵng chủ yếu sống bằng nghề buôn bán.[21]
Ngày 4 tháng 10 năm 1975, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời khu Trung Trung bộ ra Quyết định số 119/QĐ về việc hợp nhất tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà (2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và thị xã Đà Nẵng thời Việt Nam Cộng hòa) thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ba quận I, II, III của thị xã Đà Nẵng cũ trở thành đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng[22] (không còn đơn vị hành chính mang tên Đà Nẵng).
Ngày 30 tháng 8 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 228/CP,[23] và ngày 10 tháng 2 năm 1978, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng ra quyết định sáp nhập 3 quận I, II, III thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành một đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng với 28 phường trực thuộc[22] (không còn đơn vị hành chính "quận", được gọi lại là "khu vực"). Lúc này, Đà Nẵng là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Thành phố Đà Nẵng bao gồm 28 phường: An Hải Bắc, An Hải Đông, An Hải Tây, An Khê, Bắc Mỹ An, Bình Hiên, Bình Thuận, Chính Gián, Hải Châu I, Hải Châu II, Hòa Cường, Hòa Thuận, Khuê Trung, Mân Thái, Nại Hiên Đông, Nam Dương, Phước Mỹ, Phước Ninh, Tam Thuận, Tân Chính, Thạc Gián, Thạch Thang, Thanh Bình, Thanh Lộc Đán, Thọ Quang, Thuận Phước, Vĩnh Trung và Xuân Hà.
Ngày 5 tháng 5 năm 1990, thành phố Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại II.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được chia thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương.[24]
Ngày 23 tháng 1 năm 1997, Chính phủ thông qua Nghị định 7/1997/NĐ-CP về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng.[25] Theo đó, giải thể thành phố Đà Nẵng cũ để thành lập các quận mới như sau:
Đến ngày 5 tháng 8 năm 2005, Chính phủ lại ban hành Nghị định 102/2005/NĐ-CP về việc thành lập phường, xã thuộc quận Thanh Khê và huyện Hoà Vang; thành lập quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.[26] Theo đó, phường Khuê Trung thuộc quận Hải Châu chuyển sang trực thuộc quận mới Cẩm Lệ.
Như vậy, thành phố Đà Nẵng cũ trước năm 1997 ngày nay có địa giới tương ứng với các quận Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà; phường Khuê Trung của quận Cẩm Lệ và các phường Khuê Mỹ, Mỹ An (2 phường này là phường Bắc Mỹ An cũ) của quận Ngũ Hành Sơn.
Nhằm mở rộng và đa dạng hoá các tổ chức dịch vụ thu, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân khi tham gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình, hướng tới mục tiêu phát triển BHXH, BHYT toàn dân, Bảo hiểm xã hội Thành phố và Viettel Hải Phòng, Công ty Bảo hiểm PVI Duyên Hải ký hợp đồng ủy quyền thu BHXH, BHYT.
Theo nội dung hợp đồng ủy quyền, Viettel Hải Phòng, Công ty Bảo hiểm PVI Duyên Hải có trách nhiệm vận động, duy trì phát triển người tham gia BHXH tự nguyện, người tham gia BHYT theo hộ gia đình, người tham gia BHYT được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng (trừ đối tượng học sinh, sinh viên) trong phạm vi toàn thành phố Hải Phòng; Đôn đốc, thu tiền đóng, tiếp nhận hồ sơ của người tham gia; lập danh sách tham gia của người tham gia BHXH tự nguyện, BHYT tự đóng; nhận sổ BHXH, thẻ BHYT từ cơ quan BHXH trả cho người tham gia.
Viettel Hải Phòng và Công ty Bảo hiểm PVI Duyên Hải tự đảm bảo các điều kiện về nguồn nhân lực, tài chính, điểm thu, cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định để thực hiện hoạt động thu BHXH, BHYT theo Hợp đồng.
Ảnh: Lãnh đạo Công ty Bảo hiểm PVI Duyên Hải phát biểu ý kiến
Tại Lễ ký kết, các đơn vị cam kết đồng hành cùng BHXH Thành phố triển khai tốt chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn, đặc biệt không ngừng cập nhật, cải tiến hệ thống công nghệ thông tin, cách làm mới phù hợp với thực tiễn, nâng cao hiệu quả công việc nhằm đạt và vượt các chỉ tiêu cam kết với BHXH thành phố Hải Phòng về thu BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình.